Các bằng chứng hiện nay cho thấy rõ đau mạn tính có thể là một bệnh mạn tính. Khi phẫu thuật thay khớp háng cho người bị tổn thương khớp nặng, thông thường phẫu thuật giải quyết vấn đề viêm khớp và đi lại của bệnh nhân. Tuy nhiên, 10-15% bệnh nhân không có kết quả đó. Rõ ràng họ đã có hai bệnh:. Viêm xương khớp của khớp háng và bệnh mạn tính của đau mạn tính.
Trên thế giới, việc quản lý đau vẫn còn thiếu, việc tiếp cận điều trị đau còn hạn chế với các bệnh nhân bị đau mạn tính, cấp tính và thậm chí đau do ung thư. Trong khi thừa nhận đau mạn tính là một bệnh mạn tính là rất quan trọng, trớ trêu thay, sự thừa nhận này dường như đã trở thành một trong những rào cản lớn nhất để cải thiện nó.
Giáo sư John Bonica, được coi là cha đỡ đầu về quản lý đau, đã có bước đột phá khi vào năm 1946, ông bắt đầu đặt vấn đề tiếp cận đa ngành để chẩn đoán và điều trị đau. Cách tiếp cận đó là vô cùng cần thiết ngày hôm nay.
Trong khi đó, WHO hiện đang xuất bản hướng dẫn lâm sàng dựa trên bằng chứng về đau mạn tính và quản lý cơn đau ở trẻ em. Một số chương trình đào tạo trực tuyến cũng có sẵn cho các bác sĩ tại Úc và các nơi khác để nâng cao kỹ năng của họ. Nhưng việc xây dựng một chương trình giảng dạy chuyên biệt cho quản lý đau là rất quan trọng để nó được sự tin cậy và công nhận rộng rãi.
Theo MIMS
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét